Tên võ trang đi trước, tôi theo sau. Băng qua làng người cùi, ngang qua khu rừng chồi, bắt đầu vào khu vực Đội 4 Nông Trường Trà ở thượng nguồn thung lũng. Hắn mặc đồ Công An, tôi mặc quần áo tù. Đứng trước gian nhà thật nhỏ ngay đầu dãy, đang có sáu cô gái ngồi bên trong. Một trong sáu cô gái vui vẻ:
“Chào anh Minh”. Rồi cô ta nhìn tôi: “Chào anh”.
Tên Minh đưa tay về phía tôi:
“Giới thiệu với các cô, đây là anh Hoa”.
Cô vừa chào, lên tiếng:
“Mời anh Minh và anh vào. Các anh thông cảm cho cảnh nghèo của chúng em nhé!”
Tên Minh có vẻ nịnh đầm:
“Sao hôm nay cô Lan rào đón thế?”
Hai cô cầm hai chiếc ghế đẩu mời ngồi cạnh cái bàn già nua ọp ẹp, trong khi bốn cô kia ngồi chung trên cái giường cá nhân mà tuổi đời với phẩm chất của nó cũng tương đương với cái bàn. Tên Minh hỏi:
“Tất cả các cô ở chung gian nhà này à?”
Cô gái tên Lan trả lời:
“Không anh à! Mỗi gian chúng em ở hai hoặc ba người. Gian này em ở với chị Ánh. Đây là nhà ở, vừa là văn phòng của Đội 4”.
Cô ta quay sang tôi:
“Mời anh dùng chè. Anh có dùng chè xanh được không? Ở đây chúng em nghèo lắm, chè này nếu phải mua chúng em cũng không có tiền mua đâu. Đây là chè xanh trên mấy ngọn đồi mà các anh vừa đi qua đấy”.
Từ nảy giờ tôi im lặng dò xem thái độ các cô gái này đối với tôi xem sao, vì trông vào bộ đồ của trại tù tất nhiên các cô này đoán biết tôi là tù. Các cô nhìn tôi, nhìn thẳng lẫn nhìn lén. Có lẽ các cô muốn nhận biết người miền Nam như thế nào, cho dẫu người miền Nam đang đối diện với các cô là tù chính trị.
“Cám ơn các cô. Đến nay là hơn 7 năm tôi ở trong các trại trên đất Bắc, tôi uống trà xanh này khá nhiều. Có nghĩa là tôi uống được. Còn các cô than nghèo, thật ra đất nước nghèo, người dân nghèo, điều này cả nước biết mà. Tôi xin hỏi, các cô có biết tôi là thành phần nào ở vùng này không?”
“Dạ có, vì nơi anh ở là trại Ba Sao, nơi anh đang ngồi là nhà chúng em ở Nông Trường Ba Sao, nên chúng em biết”.
“Vâng. Cám ơn các cô”.
Cô Ánh hỏi tôi:
“Anh có đến đây lần nào chưa?”
“Đây là lần đầu tiên. Chẳng lẽ cô nghĩ tôi muốn đi là đi được sao?”
“Xin lỗi anh”. Im lặng một lúc, cô ta nói tiếp:
“ Chắc anh chưa biết hoàn cảnh của chúng em. Trong Đội 4 này có 102 công nhân, nhưng có đến 100 nữ mà chỉ có hai nam công nhân thôi …”.
Tên võ trang cắt ngang dường như nó quê vì không cô nào nói chuyện với nó:
“Trong số 100 cô, có bao nhiêu cô có chồng?”
“Chỉ có hai chị có chồng”. Cô Lan trả lời.
“Buồn nhỉ?”
“Anh nói anh buồn hay anh nói chúng em?”
Tên Minh ú ớ mãi mà chưa trả lời, tôi mĩm cười:
“Có lẽ cán bộ Minh muốn làm người thứ 3 lập gia đình ở đây nhưng chưa rõ ý các cô ra sao thì phải”.
Cô tên Ánh nói như một lời than:
“Không ai đến đây với chúng em đâu anh!”
Ngưng một lúc, dường như cô ta đang xúc động!
“Chúng em biết số phận của chúng em trong xã hội này lắm anh. Có khi cả năm mới có một vài anh vì lý do gì đó mới tạt vào đây, chứ chẳng anh nào muốn làm bạn với những cô gái lam lũ quanh năm chỉ quanh quẩn những đồi chè như chúng em đâu!”
“Tôi là người miền Nam, nhưng các cô đừng nghĩ là tôi quá lời về miền Nam chúng tôi. Miền Nam chúng tôi có rất nhiều đồi trà mênh mông bao quanh thành phố Plei Ku và vùng Bảo Lộc, mà là có từ bốn năm chục năm trước. Nhưng ngay trong mấy chục năm chiến tranh mà công nhân vẫn có mức sống cao cùng với mọi tiện nghi trong gia đình, và hưởng mọi tiện nghi tân tiến trong xã hội nữa. Thật lòng mà nói, tôi không hiểu tại sao đời sống của các cô như thế này?” Tôi xin hỏi thêm, theo các cô thì những cô gái ở các vùng khác có cuộc sống khá hơn các cô ở đây không?”
Tên võ trang lên tiếng:
“Tại vì chế độ trong đó thoáng hơn”.
Tôi đáp với chút ngạc nhiên: “Có thể là như vậy”.
Lẽ ra tôi phải nói chính xã hội chủ nghĩa làm cho dân nghèo, đất nước nghèo, nhưng dù gì thì thằng này cũng là Công An cai tù, nói như vậy cũng đủ rồi. Câu của hắn vừa rồi, không hiểu là hắn muốn bẫy tôi, hay trong lúc bất chợt hắn bộc lộ nhận thức chính trị trong con người thật của hắn? Hắn hỏi tôi:
“Anh có đọc bài báo viết về Nông Trường Chè Sông Bôi chưa?”
“Có, vì tôi phụ trách đọc báo trong buồng giam”.
Cô tên Lan hỏi tôi: “Bài báo nói gì vậy anh?”
“Tôi không biết là có nên nói hay không nữa”.
Đó là cách gợi thêm tính tò mò của cô ta nên tôi bỏ lửng như vậy. Tên Minh châm mồi:
“Bài báo nói bên Nông Trường Sông Bôi có đến mấy trăm cô chưa chồng đó mà”.
Cô Lan tỉnh bơ:
“Tưởng gì chứ tin đó bình thường thôi. Hiện giờ công nhân nữ ở Nông Trường nào cũng thế đấy. Bộ anh Minh tưởng Nông Trường này ít à!”
“Tôi thấy bài báo nói ở đó hơn 400 cô chưa chồng, nhưng không thấy nói tổng số các cô ở đó là bao nhiêu nên chưa thể nói là nhiều hay ít”.
“Họ nói chưa đúng đâu anh …..”.
Tên Minh cắt ngang:
“Chẳng lẽ cứ câu chuyện này mãi sao!
Như một lời than, cô Lan nói:
“Thú thật với các anh, chuyện của chúng em ở cái xó rừng này quanh quẩn chỉ thế thôi. Đó là sự thật không thể chối bỏ, đến mức chúng em xem nó bình thường nên chẳng tránh né gì cả”.
Không thể chần chờ được nữa vì phải một tiếng đồng hồ đi bộ để còn kịp giờ về trại, tôi nhắc tên võ trang ra về. Cô Lan vào trong cầm ra một bọc giấy nhỏ:
“Anh Minh cho anh Hoa nhận trà xanh đem về trại uống được không?”
“Được”. Anh Hoa nhận đi”.
Cô ta quay sang tôi:
“Anh Hoa, anh mang trà này về trại uống. Ở đây chúng em chỉ có thế”.
“Cám ơn cô. Chào các cô”.
Sau lời chào đó, tất cả các cô bước ra cửa vẫy tay như một cử chỉ thân thiện. Trên đường về, tôi hỏi:
“Bộ thanh niên vùng này không thích cưới vợ là công nhân ở các Nông Trường sao cán bộ?”
“Anh không biết. Thời bây giờ chẳng anh nào lao đầu vào cưới các cô không có kinh tế cơ bản cả. Tôi không rõ trong Nam các anh ra sao, nhưng ngoài này (tức đất Bắc), sắc đẹp là thứ yếu, kinh tế (ý nói có tiền) mới là chủ yếu”.
“Cán bộ có thể nói trường hợp điển hình được không?”
“Bất cứ cô nào trong số đó, nếu chuyển sang làm mậu dịch viên (tức là đứng bán hàng) là tôi cưới ngay. Làm mậu dịc…[Message Truncated]
View full message.EDITED: 8 Oct 2018 17:20 by OPLA